Nguồn gốc cuộc chiến Chiến_tranh_Ả_Rập-Israel_1948

Sau khi Đế chế Ottoman bị đánh bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, phía Đồng minh nhóm họp tại San Remo, Ý ngày 18–26 tháng 4 để bàn bạc các điều khoản cho hiệp ước với Thổ Nhĩ Kỳ[7]. Kết luận của cuộc họp chủ yếu xác nhận các điều khoản của cuộc đàm phán Luân Đôn lần thứ nhất và thỏa thuận Sykes-Picot ngày 16 tháng 5 năm 1916 và Tuyên cáo Balfour ngày 12 tháng 11 năm 1917[8][9]. Theo thỏa thuận, Pháp được ủy nhiệm quản lý Syria còn Anh được ủy nhiệm quản lý vùng Lưỡng Hà và Palestine, đường biên giới sẽ được các cường quốc tham gia đàm phán xác lập[7].

Trong cuộc họp ở CairoJerusalem giữa Winston Churchill và hoàng tử Abdullah (sau là vua Abdullah đệ Nhất của Jordan) tháng 3 năm 1921, họ đồng ý Abdullah sẽ cai quản lãnh thổ Transjordan (trong vòng 6 tháng) để đại diện cho phía Palestine. Tới mùa hè năm 1921, vùng Transjordan vẫn còn nằm trong Lãnh thổ ủy trị, nhưng không nằm trong các điều khoản về Quê hương cho người Do thái[10]. Ngày 24 tháng 7 năm 1922, Hội quốc liên chấp thuận các điều khoản về việc ủy nhiệm cho Anh các vùng đất Palestine và Transjordan. Ngày 16 tháng 9, Hội quốc liên chính thức phê chuẩn bản ghi nhớ của Huân tước Balfour, xác nhận ngoại trừ Transjordan trong các điều khoản về việc thành lập một quốc gia cho người Do thái[11].

Tới năm 1922, dân cư Palestine bao gồm khoảng 589.200 người Hồi giáo, 83.800 người Do Thái, 71.500 người Thiên chúa giáo và 7.600 người khác (thống kê năm 1922 [12]). Tuy nhiên, tại vùng này diễn ra một cuộc di cư lớn của người Do thái (đa phần chạy tị nạn khỏi sự truy bức tại châu Âu). Cuộc chạy tị nạn và lời kêu gọi thành lập quốc gia Do thái gây nên phản ứng quyết liệt từ phía dân cư Ả rập bản địa, vì người Ả rập đồn là người Do thái âm mưu nô dịch người Ả rập và trục xuất dân cư bản địa không phải là Do thái.

Dưới sự lãnh đạo của Amin al-Husayni, đại Giáo trưởng Hồi giáo ở Jerusalem, người Ả rập nổi lên chống lại người Anh và liên tục tấn công dân cư Do thái. Các cuộc tấn công lẻ tẻ bắt đầu từ cuộc nổi loạn của người Ả rập năm 1920 và cuộc nổi dậy ở Jaffa năm 1921. Trong cuộc nổi dậy năm 1929, 67 người Do thái bị giết tại Hebron, những người sống sót được nhà chức trách Anh di tản.

Cuộc nổi dậy của người Ả rập (1936–1939) và hệ quả

Cuối những năm 1920, đầu 1930, một số đảng phái của người Palestine trở nên mất kiên nhẫn với tình trạng bè phái, mất đoàn kết trong cộng đồng, cũng như sự bất lực của tầng lớp lãnh đạo người Palestine, nên bắt đầu một phong trào bài Anh và bài Do thái của giới bình dân, lãnh đạo bởi những đảng như Hội Thanh niên Hồi giáo. Họ cũng tổ chức tẩy chay và bất hợp tác theo hình mẫu Ấn Độ. Hầu hết những phong trào mới khởi phát này đều bị dập tắt bởi giới nhân sỹ địa phương hoạt động cho bộ máy chính quyền Anh, đặc biệt là "giáo trưởng Hồi giáo" và người bà con của ông là Jamal al-Husayni. Cái chết của nhà truyền giáo Izz ad-Din al-Qassam bởi tay của cảnh sát Anh tại Jenin tháng 11 năm 1935 làm cho người Hồi giáo đặc biệt tức giận. Một đám đông lớn đưa tiễn thi thể ông đi mai táng tại Haifa. Vài tháng sau, một cuộc tổng bãi công do người Ả rập khởi xướng đồng loạt diễn ra và kéo dài cho đến tháng 10 năm 1936. Trong mùa hè năm đó, hàng ngàn mẫu ruộng và vườn cây của người Do thái bị chặt phá, người Do thái bị tấn công và bị giết hại, khiến cho một số cộng đồng Do thái, như ở Beisan và Acre, phải bỏ chạy lánh nạn[13].

Tiếp theo cuộc tổng bãi công, cùng với khuyến nghị của phái đoàn Peel chia vùng này thành một tiểu quốc Do thái và một quốc gia Ả rập thống nhất với Jordan, một cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra trên toàn lãnh thổ. Trong vòng 18 tháng tiếp theo, người Anh mất quyền kiểm soát Jerusalem, Nablus, và Hebron. Trong khoảng thời gian từ 1936–1939, quân Anh, được hỗ trợ bởi 6.000 cảnh sát Do thái vũ trang[14], đàn áp cuộc nổi dậy của người Ả rập. Kết quả là có 5.000 người Ả rập bị chết và 10.000 người bị thương. Tổng cộng, 10 phần trăm số đàn ông Ả rập trưởng thành bị chết, bị thương, bị bắt giữ hay phải bỏ trốn. Cộng đồng Do thái có 400 người chết, còn chính quyền Anh mất 200 người.

Một diễn biến quan trọng trong thời kỳ này, là việc viên sĩ quan cao cấp của Anh Charles Orde Wingate, (người ủng hộ chủ trương tái lập quốc gia cho người Do thái[15]), thành lập Đội đặc nhiệm đêm gồm thành viên của Haganah, chỉ huy bởi sĩ quan Anh, và đã giành được nhưng "thắng lợi quan trọng chống lại quân nổi loạn Ả rập tại vùng hạ Galilee và Thung lũng Jezreel"[16], bằng cách đột kích vào các làng Ả rập. Haganah huy động đến 20.000 cảnh sát, quân dã chiến và các đội tuần tra đêm. Cũng phải kể đến việc từ năm 1936 đến năm 1945, đồng thời với việc hợp tác với Tổng bộ Do thái, chính quyền Anh tịch thu 13.200 súng từ người Ả rập, và 521 súng từ người Do thái[17].

Cuộc tấn công của người Ả rập vào cộng đồng dân cư Do thái có 3 hệ quả lâu dài: thứ nhất, người Do thái phát triển rộng thêm lực lượng dân quân bí mật, chủ yếu là Haganah ("Lực lượng phòng vệ"), mà sau này là nhân tố quyết định chiến thắng năm 1948. Thứ nhì là các cuộc tấn công làm người ta càng tin tưởng là hai cộng đồng này không thể chung sống hòa bình, nên ý tưởng phân chia lãnh thổ nảy sinh. Thứ ba là người Anh đối phó với sự chống đối của người Ả rập bằng cách phát hành sách trắng (trong đó công bố chính sách của chính quyền Anh) hạn chế ngặt nghèo người Do thái di cư. Tuy nhiên, với Chiến tranh thế giới thứ hai hiển hiện trước mắt, ngay cả số quota di cư hạn chế này cũng không thể nào đạt được. Sách trắng khiến cho một bộ phận người Do thái trở nên cực đoan, quyết không hợp tác với người Anh, sau khi Đại chiến thế giới kết thúc.

Bộ máy chính quyền Anh và việc huấn luyện quân sự cho người Do thái và Ả rập

Từ năm 1936 trở đi, chính quyền Anh tạo điều kiện huấn luyện, trang bị và tuyển mộ một loạt lực lượng an ninh và cơ sở tình báo hợp tác với Tổng bộ Do thái (tức chính quyền Do thái thời kỳ tiền lập quốc). Trong số đó phải kể đến lực lượng "Vệ binh", bao gồm từ 6.000 đến 14.000 Cảnh sát trù bị Do thái[18], 6.000 đến 8.000 Cảnh sát Định cư tinh nhuệ[19] và Đội đặc nhiệm ban đêm[20], tiền thân của đơn vị Đặc nhiệm đường không của Anh[21]. Ngoài ra còn có lực lượng xung kích tinh nhuệ FOSH, tức Đại đội dã chiến[19], với khoảng 1.500 thành viên để thay thế lực lượng HISH (tức "Lực lượng dã chiến") đông đảo hơn vào năm 1939[19][22]. Cơ quan SHAI, tức cục tình báo và chống phản gián của Haganah, là tiền thân của Mossad (cơ quan tình báo Israel sau này)[23].

Chính quyền Anh cũng tuyển mộ chừng 6.000 người Ả rập Palestine trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai và 1.700 người khác được tuyển vào lực lượng cảnh sát biên giới Liên-Jordan, hay T.J.F.F.[24]. Thêm vào đó, người Anh cung cấp sĩ quan cho đạo quân Lê Dương Ả rập của Jordan, và cấp cho quân đội Ai Cập xe tải, súng trường và phi cơ. Người Anh như vậy rất nghịch lý là đã trang bị cho cả hai phe trong cuộc xung đột sắp nổ ra.

Chiến tranh thế giới thứ hai

Ngày 6 tháng 8 năm 1940, Anthony Eden, Bộ trưởng Chiến tranh của Anh, thông báo cho Quốc hội Anh là Chính phủ đã quyết định tuyển mộ người Ả rập và Do thái vào các tiểu đoàn Royal East Kent Regiment (còn gọi là the "Buffs")[25]. Trong buổi ăn trưa với tiến sĩ Chaim Weizmann (lãnh tụ người Do thái) ngày 3 tháng 9, Winston Churchill chấp thuận việc tuyển mộ trên quy mô lớn người Do thái sống trong vùng lãnh thổ Ủy nhiệm của Anh tại Palestine và huấn luyện sĩ quan Do thái. Hơn 10 ngàn người khác (trong đó không quá 3 ngàn người từ Palestine) sẽ được tuyển mộ và huấn luyện tại Anh.

Đối mặt với đà tiến công của Nguyên soái Đức Rommel ở Ai Cập, người Anh quyết định cho 10.000 binh lính Do thái "Buffs" vốn phân thành từng đại đội thống nhất thành các đơn vị ở mức tiểu đoàn, đồng thời động viên thêm 10.000 binh lính nữa, cùng với 6.000 Cảnh sát trù bị và từ 40.000 cho đến 50.000 vệ binh. Kế hoạch được phê chuẩn bởi Nguyên soái John Dill. Lực lượng tác chiến đặc biệt (SOE) ở Cairo chấp nhận đề nghị của Haganah tiến hành các hoạt động du kích ở miền bắc Palestine do bộ phận Palmach của Haganah thực hiện, để bảo vệ lãnh thổ, đồng thời từ đó đột kích các tuyến liên lạc và tiếp tế của Đức Quốc Xã, nếu cần. Tình báo Anh cũng huấn luyện một mạng lưới thông tin viên sử dụng radio dưới quyền Moshe Dayan để chuẩn bị hoạt động gián điệp chống quân chiếm đóng Đức[26]

Sau nhiều lần do dự, ngày 3 tháng 7 năm 1944, chính phủ Anh đồng ý thành lập Lữ đoàn Do thái, với các sĩ quan gồm cả Do thái và không phải Do thái được tuyển chọn kỹ càng. Ngày 20 tháng 9 năm 1944, một sĩ quan thông tin thuộc Văn phòng chiến tranh thông báo việc thành lập Cụm Lữ đoàn Do thái trong Quân đội Anh. Lá cờ Zion của người Do thái được chính thức chấp nhận làm chiến kỳ của Lữ đoàn. Lực lượng này bao gồm hơn 5.000 quân tình nguyện Do thái từ Palestine, chia làm ba tiểu đoàn bộ binh và một số đơn vị hỗ trợ[27].

Ngay khi chiến tranh kết thúc, người Anh quay ngoắt lại với chính sách thực hiện trước chiến tranh. Họ tịch thu vũ khí, và một số thành viên của Haganah bị bắt và bị đưa ra tòa, trong đó phải kể đến trường hợp Eliahu Sacharoff, bị kết án 7 năm tù chỉ vì sở hữu 2 viên đạn nhiều hơn so với giấy phép[28].

Bản đồ phân chia Palestine của Liên hiệp quốc

Kế hoạch phân chia lãnh thổ của Liên Hiệp Quốc

Ngày 29 tháng 11 năm 1947, Đại hội đồng Liên hiệp quốc chấp thuận nghị quyết số 181, giải quyết cuộc xung đột Ả rập-Do thái bằng cách phân chia Palestine thành hai quốc gia, Do thái và Ả rập. Mỗi quốc gia sẽ bao gồm 3 vùng lãnh thổ chính, liên kết bởi các dải lãnh thổ đặc quyền hẹp; người Ả rập cũng sẽ được vùng đất Jaffa nằm lọt trong lãnh thổ của người Do thái. Với chừng 32% dân số, người Do thái sẽ được 56% lãnh thổ, trong đó có 499.000 người Do thái và 438.000 người Palestine cư ngụ, mặc dù phần lãnh thổ này tính cả hoang mạc Negev ở phía nam. Người Palestine được 42% lãnh thổ, với dân cư gồm 818.000 người Palestine và 10.000 người Do thái. Vì tính chất tôn giáo thiêng liêng của Jerusalem, nên vùng này, bao gồm cả Bethlehem, với 100.000 dân Do thái và cũng khoảng chừng ấy dân Ả rập sẽ được quản trị bởi Liên hiệp quốc[29].

Mặc dù một số người Do thái chỉ trích kế hoạch này, bản nghị quyết được đông đảo nhân dân Do thái ủng hộ. Ban lãnh đạo Zion chấp nhận nghị quyết như là "sự cần thiết tối thiểu"[30], vui mừng là họ nhận được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế, dù rằng họ vẫn lấy làm tiếc là họ không được chia nhiều lãnh thổ hơn[31].

Cho rằng kế hoạch phân chia không công bằng với người Ả rập, khi tính đến tỷ trọng dân cư, đại diện của người Ả rập Palestine và Liên đoàn Ả rập chống đối quyết liệt kế hoạch của Liên hiệp quốc, thậm chí bác bỏ quyền của Liên hiệp quốc can thiệp vào cuộc xung đột[32]. Họ nhất định cho rằng "quyền cai quản Palestine phải thuộc về cư dân của nó, theo các điều khoản Hiến chương Liên hiệp quốc"[33]. Theo Điều 73b của Hiến chương, Liên hiệp quốc phải dựng lên chính quyền tự quản của chính dân cư sống trong lãnh thổ.

Nội chiến 1947–1948 trong vùng đất ủy trị

Ngay sau khi Liên hợp quốc chấp thuận kế hoạch phân chia, cộng đồng Do thái như vỡ tung lên vì hoan hỉ, trong khi cộng đồng Ả rập tỏ ra hết sức bất mãn. Chẳng bao lâu sau, xung đột nổ ra và ngày càng lan rộng, chém giết, báo thù và phản báo trả thù nối tiếp nhau, khiến cho hàng chục người ở cả hai phe thiệt mạng.

Trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 1947 cho tới hết tháng 1 năm 1948, ước tính có khoảng 1000 người bị giết và 2000 người bị thương[34]. Tới cuối tháng 3, thương vong đã lên tới 2000 người chết và 4000 người bị thương[35], tương đương với khoảng 100 người chết và 200 người bị thương mỗi tuần, với dân số chỉ vỏn vẹn 2 triệu người.

Từ tháng 1 trở đi, các hoạt động ngày càng mang tính quân sự, với hàng trung đoàn Quân giải phóng Ả rập can thiệp vào phía người Palestine, bố trí quanh một số thị trấn ven biển cũng như củng cố các vùng GalileeSamaria[36]. Abd al-Qadir al-Husayni cũng đến từ Ai Cập tham chiến với vài trăm thành viên của Quân đội thánh chiến.

Sau khi tuyển mộ được vài ngàn quân tình nguyện, al-Husayni tổ chức phong tỏa 100.000 cư dân Do thái ở Jerusalem[37]. Để đáp lại, ban lãnh đạo Yishuv tìm cách tiếp tế cho thành phố với đoàn xe tiếp viện lên tới 100 xe bọc thép, nhưng chiến dịch tiếp viện ngày càng trở nên thiếu thực tế, vì càng ngày càng có nhiều người bị giết trong chiến dịch tiếp tế. Tới tháng 3, chiến thuật của Al-Hussayni mang lại thành công, hầu hết đoàn xe tiếp tế bị phá hủy, cuộc phong tỏa trở nên toàn diện, và hàng trăm thành viên Haganah tham gia cứu viện thành phố bị giết[38]. Tình hình những người bị kẹt lại trong các khu Do thái ở vùng hoang mạc Negev và miền bắc trở nên khốn quẫn.

Vì những người Do thái được chỉ thị phải bám trụ bằng mọi giá[39], tình hình bất ổn trên toàn quốc ảnh hưởng đến người Ả rập còn nặng nề hơn, chừng 100.000 Palestine, chủ yếu là những người ở tầng lớp trung lưu khá giá, chạy ra nước ngoài hoặc chuyển đến Samaria để tránh chiến tranh.[40]

Tình hình này buộc nước Mỹ phải xem xét lại sự ủng hộ mà họ dành cho kế hoạch Phân chia, làm cho Liên đoàn Ả rập tin rằng, người Palestine, với sự hỗ trợ của Quân giải phóng Ẩ rập, có thể phá hỏng kế hoạch Phân chia. Mặc khác, người Anh lại ra quyết định ngày 17 tháng 2 năm 1948 ủng hộ việc sáp nhập các lãnh thổ Ả rập vào Jordan[41].

Thủ lĩnh người Do thái Ben-Gurion tái tổ chức Haganah, ban hành nghĩa vụ quân sự bắt buộc, tất cả phụ nữ và đàn ông đều phải tham gia huấn luyện quân sự. Nhờ vào nguồn tài chính do Golda Meir quyên góp được từ những cảm tình viên ở Mỹ, và sự hỗ trợ của Stalin cho phong trào Zion, đại diện Do thái ký được những hợp đồng mua vũ khí quan trọng. Các nhân viên Haganah thu mua vũ khí tồn kho từ thời Chiến tranh thế giới thứ hai để góp phần trang bị cho quân đội. Cuối tháng ba, lần đầu tiên họ tiến hành chiến dịch Balak để chuyển vũ khí và trang thiết bị về Palestine.

Ben-Gurion cũng giao nhiệm vụ cho Yigal Yadin lên kế hoạch đối phó trong trường hợp các quốc gia Ả rập can thiệp vũ trang. Kết quả là kế hoạch Dalet ra đời và được đưa vào thực hiện kể từ tháng 4, mà với kế hoạch đó, kể từ giai đoạn thứ hai của cuộc chiến, Haganah chuyển từ thế phòng ngự sang phản công.

Chiến dịch đầu tiên, mật danh Nachshon, bao gồm việc phá vỡ cuộc phong tỏa Jerusalem. Một ngàn năm trăm chiến sĩ lữ đoàn Guivati thuộc Haganah và lữ đoàn Harel thuộc Palmach tham gia chiến dịch mở đường từ ngày 5 tháng 4 tới ngày 20 tháng 4. Chiến dịch thành công với khoảng hai tháng lương thực được chuyển tới Jerusalem để phân phát cho dân chúng[42] Thành công của chiến dịch càng lớn bởi Al-Hassayni bị chết trận. Cùng thời gian, binh sĩ thuộc IrgunLehi (ngoài vòng kiểm soát của Haganah) tiến hành thảm sát hơn một trăm người Ả rập, đa phần là dân thường tại Deir Yassin, gây chấn động cộng đồng Ả rập, khiến cho các thủ lĩnh Do thái phải lo ngại và lên tiếng chỉ trích

Cũng trong thời gian đó, chiến dịch lớn đầu tiên của Quân giải phóng Ả rập bị "thất bại thảm hại", vì bị đánh tơi tả tại Mishmar Ha'emek[43], và còn bị đồng minh là bộ tộc người Druze đào ngũ bỏ sang phe Do thái[44].

Theo kế hoạch Dalet, các lực lượng Haganah, PalmachIrgun tiến chiếm các khu vực dân cư hỗn hợp Ả rập-Do thái. Các thành phố Tiberias, Haifa, Safed, Beisan, JaffaAcre lần lượt thất thủ, khiến cho hơn 250.000 người Palestine phải chạy tị nạn[45].

Cùng thời gian, người Anh về cơ bản đã rút quân, tình hình khiến cho lãnh đạo các quốc gia Ẩ rập phải can thiệp, nhưng họ chưa hoàn toàn sẵn sàng, và không thể tập trung kịp lực lược cần thiết để đảo ngược tình hình chiến sự. Đa phần người Palestine kỳ vọng vào đạo quân Lê Dương Ả rập của vua Jordan là Abdullah I, nhưng ông không muốn tạo ra một quốc gia của người Palestine, mà chỉ muốn sáp nhập lãnh thổ ủy nhiệm Palestine vào Jordan, nên tiến hành bắt cá hai tay, giữ liên lạc với cả ban lãnh đạo người Do thái và Liên đoàn Ẩ rập.

Để chuẩn bị phản công, Haganah mở chiến dịch Yiftah[46] và Ben-'Ami[47] để củng cố các khu định cư Do thái tại Galilee, và chiến dịch Kilshon, thiết lập một mặt trận liên tục quanh Jerusalem.

Golda Meir và vua Abdullah I gặp mặt ngày 10 tháng 5 để thảo luận, nhưng cuộc họp không mang lại kết quả cụ thể gì, mà cả những thỏa thuận trước đó cũng không được xác lập lại. Ngày 13 tháng 5, quân Lê Dương Ả rập, được dân quân hỗ trợ, tấn công và đánh chiếm Kfar Etzion. Trong tổng số 131 người Do thái tham gia phòng thủ có 127 người tử trận, quân Ả rập tàn sát hết số người sống sót bị bắt làm tù binh.

Ngày 14 tháng 5 năm 1948, David Ben-Gurion tuyên bố quốc gia độc lập Israel ra đời, ngày hôm sau quân đội các quốc gia Ả rập can thiệp, cuộc chiến tranh 1948 bước vào giai đoạn hai.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Ả_Rập-Israel_1948 http://www.allthatremains.com/Maps/IsraeliMilitery... http://www.bartleby.com/67/3770.html http://www.haaretzdaily.com/hasen/pages/ShArt.jhtm... http://www.zionism-israel.com/dic/War_of_Independe... http://www.zionism-israel.com/his/Israel_war_indep... http://www.knesset.gov.il/holidays/eng/independenc... http://www.jafi.org.il/education/100/maps/images/i... http://www.aisisraelstudies.org/2006papers/Gelber%... http://web.archive.org/web/20090709233331/http://w... http://www.dinur.org/resources/resourceCategoryDis...